Albumin nồng độ thấp xuất hiện trong nước tiểu (vi đạm niệu) trước đây được cho là do tổn thương các vi mạch trong thận nên chủ yếu được dùng để chẩn đoán bệnh thận ở bệnh nhân tiểu đường tuy nhiên gần đây người ta nhận thấy vi đạm niệu còn được tìm thấy ngay cả ở bệnh nhân không mắc bệnh tiểu đường.
Một số nghiên cứu lớn như PREVEND (Prevention of Renal and Vascular Endstage Disease), EPIC - Norfolk (European Prospective Investigation of Cancer - Norfolk) cho thấy vi đạm niệu có liên quan với tần suất xảy ra các cố tim mạch như bệnh động mạch vành hoặc tử vong do biến cố tim mạch. Như vậy, có lẽ vi đạm niệu phản ánh một cơ chế khác trong sinh lý bệnh học tim mạch. Hiện nay, nói chung vi đạm niệu được xem là một dấu ấn của rối loạn chức năng nội mạc hiện diện trong hầu hết bệnh nhân có biến chứng tim mạch.
Những nghiên cứu lâm sàng lớn như HOPE (Heart Outcomes Prevention Evaluation), LLFE (Losartan lntervention For End-point reduction in hypertension) đã xác nhận thêm cho mối tương quan giữa vi đạm niệu và bệnh mạch máu lớn. Tần suất các biến cố tim mạch như bệnh động mạch vành, bệnh mạch máu ngoại biên, và bệnh mạch máu não đều liên quan có ý nghĩa và liên quan phụ thuộc vào mức độ đạm niệu hoặc nguy cơ xảy ra tử vong tim mạch. Điều đáng chú ý nhất là phân tích post hoc cho thấy giảm vi đạm niệu bằng những thuốc ức chế hệ renin-angiotensin trong nghiên cứu LLFE và HOPE làm giảm nguy cơ xảy ra các kết cục tim mạch không mong muốn. Điều này cung cấp thêm chứng cứ cho thấy can thiệp làm giảm vi đạm niệu có thể làm chậm lại tiến trình diễn tiến của bệnh.
Tuy nhiên nghiên cứu ONTARGET (ONgoing Telmisartan Alone and in combination with Ramipril Global Endpoint Trial) cho thấy sử dụng đồng thời một thuốc ức chế men chuyển (ACE) với một thuốc ức chế thụ thể angiotensin không có tác động đối với tỷ lệ biến cố tim mạch, mặc dù phối hợp thuốc có tác dụng làm giảm đạm niệu nhiều hơn so với khi sử dụng thuốc ức chế men chuyển đơn độc. Đây là một sự trái ngược gây ngạc nhiên và cần có giải thích.
Trong nghiên cứu ADVANCE (Action in Diabetes and Vascular disease: Preterax and Diamicron MR Controlled Evaluation) mới được công bố gần đây, nguy cơ xảy ra bệnh thận giai đoạn cuối hoặc tiến triển của bệnh thận lại liên quan có ý nghĩa với mức đạm niệu.
Chỉ số HR đối với một biến cố thận khoảng 12 ở những bệnh nhân có đạm niệu đại thể và khoảng 5-6 ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có vi đạm niệu. Trong nghiên cứu này, vi đạm niệu có liên quan rõ rệt với sự xuất hiện của bệnh mạch máu nhỏ và sử dụng perindopril và indapamide làm giảm vi đạm niệu. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là cả trước và trong quá trình điều trị những đối tượng này, vi đạm niệu còn có liên quan trực tiếp và có ý nghĩa với nguy cơ tử vong tim mạch gợi ý vi đạm niệu cũng là một dấu ấn đối với bệnh mạch máu lớn.
Như vậy vi đạm niệu có lẽ là một yếu tố dự báo đối với bệnh lý mạch máu nhỏ và bệnh mạch máu lớn. Tuy nhiên, một vấn đề quan trọng đặt ra là liệu một thuốc nhằm vào vi đạm niệu có làm giảm tần suất của biến chứng tim mạch, độc lập với bất kỳ một tác dụng nào của huyết áp hay không. Đây là một thách thức lớn cho những nghiên cứu trong tương lai.
Theo Michel Burnier , MD
Professor, Department of Nephorology CHUV, University Hospital
17 Rue du Bugnon, CH 1011 Lausanne (Thuỵ Sĩ)
Tài liệu do Servier cung cấp.
(Cardionet.VN tiếp tục cập nhật)
|